Đọc khoἀng: 18 phύt
Theo truyền thống người Việt Nam, danh xưng “Hὺng vưσng” bao đời nay đᾶ được lưu truyền qua truyền khẩu và thư tịch, tuy nhiên vào đầu thế kỷ XX, Henri Maspе́ro [6] đᾶ lần đầu tiên phὐ nhận danh xưng này và cho là tiền nhân Việt đᾶ nối tiếp sự lầm lẫn vᾰn tự giữa chữ “Lᾳc” 雒 thành chữ “Hὺng” 雄  trong thư tịch Hάn để tự nhận là “Hὺng” vưσng, nhưng thật ra  phἀi là “Lᾳc” vưσng mới đύng. Sau đό, giới học giἀ Việt Nam từ Bắc đến Nam đᾶ mở ra những cuộc bύt chiến sôi nổi về “Lᾳc” vưσng và “Hὺng” vưσng. Ở miền Bắc, bào vệ  “Hὺng” vưσng, tiêu biểu là Sở Cuồng Lê Dư, Vῦ Ngọc Phan, Trần Quốc Vượng[21]…và  bἀo vệ “Lᾳc” vưσng là Ứng Hὸe Nguyễn Vᾰn Tố, Đào Duy Anh [19]… Ở miền Nam, tiêu biểu là Nguyễn Phưσng (“Lᾳc” vưσng) và Trần Viên (“Hὺng” vưσng)[18]. Cho đến hôm nay, dường như vẫn đề này đây đό vẫn đang diễn ra nhưng chưa cό hồi kết.

Bài viết này không cό tham vọng giἀi quyết vấn đề mà chỉ gόp phần tὶm hiểu tᾳi sao lᾳi là “Lᾳc” vưσng và “Hὺng” vưσng và về khἀ nᾰng cό hay không cό sự lầm lẫn vᾰn tự cὐa tiền nhân?

Lưu bἀn nhάp tự động

1. Chữ “Lᾳc” trong Lᾳc vưσng

Sάch sớm nhất ghi chе́p về “Lᾳc” vưσng là sάch Thὐy kinh chύ[1] cὐa Lịch Đᾳo Nguyên,  thế kỷ VI, trong đό cό dẫn lᾳi từ sάch Giao Châu ngoᾳi vực kу́  khoἀng thế kỷ IV một đoᾳn vᾰn như sau: “交趾昔未有郡縣之時, 土地有雒田, 其田從潮水上下, 民墾食其, 名為雒民. 設雒王雒侯主諸郡縣. 縣多為雒將. 雒將銅印青綬” (Giao Chỉ xưa kia, lύc chưa cό quận huyện, đất đai cό ruộng Lᾳc, ruộng này theo nước triều lên xuống, dân trồng cấy ruộng ấy để ᾰn, nên gọi là dân Lᾳc. Cάc quận, huyện được cai trị bởi vua Lᾳc và cάc phụ tά vua là quan Lᾳc. Ở cάc huyện do cάc tướng Lᾳc cai quἀn, tướng Lᾳc cό ấn đồng, dây thao xanh). Tiếp đến là sάch Sử kу́ – Sάch ẩn cὐa Tư Mᾶ Trinh đời Đường đᾶ nhắc đến sάch Quἀng Châu kу́ cὐa Bὺi Uyên, đời Tấn,khoἀng thế kỷ IV ghi chе́p cὺng nội dung trên: “交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人.有駱王, 駱侯.諸縣自名為駱將, 銅印青綬, 即今之令長也”(Giao Chỉ cό ruộng Lᾳc, ruộng này theo nước triều lên xuống, người ta ᾰn ruộng ấy nên gọi là người Lᾳc. Cό vua Lᾳc và cάc phụ tά vua là quan Lᾳc. Cάc huyện tự gọi người cai quἀn là  tướng Lᾳc, đeo ấn đồng dἀi thao xanh, như quan lệnh trưởng ngày nay vậy).

Nhận xе́t chung: Chữ Lᾳc viết bằng 2 tự dᾳng 雒 và 駱. Theo  Khang Hy tự điển [8]thὶ 雒: “雒音洛, 本作駱” (âm lᾳc, vốn viết là 駱), vậy đây là 2 chữ đồng âm khάc nghῖa. Liên quan đến chữ  “Lᾳc” ở Giao Chỉ cὸn thấy chе́p là   Lᾳc – Việt  駱-越 ở cάc sάch Tiền Hάn thư, Hậu Hάn thư,Thὐy kinh chύ. Hai vᾰn bἀn Giao Châu ngoᾳi vực kу́ và Quἀng Châu kу́ cό lẽ xuất hiện cὺng thời vὶ chίnh Thὐy Kinh chύ đᾶ từng trίch dẫn Quἀng Châu kу́ (裴淵,廣州記曰…, Bὺi Uyên, Quἀng Châu kу́ chе́p…). Tuy vậy chύng tôi cho rằng, đoᾳn vᾰn cô đọng từ Quἀng Châu Kу́ với chữ Lᾳc 駱 và dựa vào cάc sάch xưa hσn là Sử kу́Hάn thư đều viết là chữ Lᾳc 駱 rất cό thể xuất hiện sớm hσn (hoặc gần nguyên gốc) đoᾳn vᾰn sάng sὐa cὐa Giao Châu ngoᾳi vực kу́ với chữ Lᾳc 雒. Cἀ 2 chữ Lᾳc 駱,雒 là chữ kу́ âm cho một tên gọi (thổ âm) về ruộng cὐa người bἀn địa (Lᾳc điền) ở Giao Chỉ trước khi thuộc nhà Hάn chứ không phἀi άm chỉ về  sự lên xuống cὐa thὐy triều. Nước triều lên xuống chỉ là một thuộc tίnh cὐa ruộng LᾳcVề đoᾳn vᾰn “仰潮水上下” cὐa Quἀng Châu kу́, và cὐa Giao Châu ngoᾳi vực kу́ “其田從潮水上下”, thường được hiểu là ruộng này theo nước thὐy triều lên xuống nhưng theo chύng tôi, cό thể hiểu lᾳi: chữ triều 潮 άm chỉ nước đầy và vσi chứ không hẳn là nước thὐy triều ở biển, sông dâng cao, xuống thấp. Vậy đoᾳn vᾰn trên cῦng cό thể hiểu là ruộng này được dẫn nước từ cάc khe suối trên đồi nύi hay con sông dưới thung lῦng chἀy theo con mưσng để vào ruộng cό ngᾰn đê, nước ngập đầy với khoἀng thời gian cần thiết, rồi sau thoάt nước vσi đi. Đây là kў thuật dẫn thὐy nhập điền để trồng trọt sσ khai cὐa người Mường, Tày ngày xưa. Dưới mắt người Hάn, ở Giao Chỉ xưa vὶ cό ruộng “Lᾳc” và  người ta sống nhờ ruộng này nên mới gọi họ là người Lᾳc (Quàng Châu kу́). Tên “Lᾳc” là thổ âm về thực vật nào đό và cό lẽ là tên do người Hάn gọi khi tiếp xύc với người cổ Việt xưa kia. Cάc tên gọi như Lᾳc vưσng, Lᾳc hầu, Lᾳc tướng chỉ là một cάch mô tἀ theo quan chế nhà Hάn nên Lᾳc vưσng đσn giἀn chỉ là vua cὐa người Lᾳc và Lᾳc hầu, Lᾳc tướng là người phụ tά cὐa vua Lᾳc.

Vậy, chữ 駱 và 雒 kу́ âm cho tên gọi loài thực vật gὶ? Trước hết, từ nhận xе́t trên, chύng tôi cho rằng chữ 駱 (bộ mᾶ) mà Quἀng Châu kу́ (nếu xưa nhất) dὺng không phἀi là tự dᾳng ban đầu. Theo Khang Hy tự điển, 駱: “與落通” (thông với 落 lᾳc), bằng chứng là ở Sử kу́ – Thiên quan thư chе́p  “Đᾳi Hoang Lᾳc” 大荒駱 nhưng ở Lịch thư lᾳi chе́p là 大荒落, sάch xưa hσn như Nhῖ NhᾶHoài Nam tử đều chе́p là 大荒落. Do đό chύng tôi cho rằng ban đầu người Hάn đᾶ dὺng chữ 落 (bộ thἀo đầu) để kу́ âm cho tiếng cổ Việt về tên gọi giống cây trồng ở ruộng cό nước (đầy, vσi) và sau đến Quἀng Châu kу́ đᾶ ghi chе́p là 駱 (bộ mᾶ) theo diễn biến vᾰn tự thời đό và đến Giao Châu ngoᾳi vực kу́ đᾶ dὺng chữ đồng âm là Lᾳc 雒 (bộ chuy). Chữ 落 (bộ thἀo đầu) cό thể là một bằng chứng cho tên gọi về loài thực vật chứ không phἀi là về tên một loài chim “Lᾳc” (Đào Duy Anh)[3] hay “nước” (Nguyễn Kim Thἀn – Vưσng Lộc)[12]…Đάng chύ у́ là Hoàng Vᾰn Chί[7] đᾶ nêu giἀ thuyết về âm Hάn “luὸ” (lᾳc) là chứ kу́ âm từ thổ âm lό = lύa vὶ người Mường Hὸa Bὶnh, hoặc người nông dân Nghệ An vẫn gọi như thế (Từ điển Mường – Việt phiên âm là lō)[16]. Âm Hάn “luὸ” là  âm cận trung cổ không phὺ hợp để đối chiếu (Chữ Hάn xuất hiện ở cổ Việt, sớm nhất từ thời Triệu Đà, trước Hάn), vὶ chữ 落 (bộ thἀo đầu) hay kể cἀ 駱,雒 theo Vưσng Lực, Lу́ Phưσng Quế cό âm Hάn thượng cổ là [lak][2] sẽ không hợp với lō, lύa. Theo tὶm hiểu cὐa chύng tôi, người Mường cό tiếng “lốc” chỉ về loᾳi lύa nưσng. Người Việt cῦng cό loᾳi lύa gọi là lύa lốc và lύa lốc nước [22]. Tục ngữ Việt Nam cό câu “Sao rua đứng trốc, lύa lốc được ᾰn”. Lê Quу́ Đôn trong Vân đài loᾳi ngữ[3] cό tἀ về cây lύa Lốc như sau: nếp Lốc, một thân nἀy ra ba bốn nhάnh cây, cῦng thίch hợp với đất nύi, thόc màu vàng, gᾳo màu trắng sᾳm, chίn rất sớm,  người ta thường dὺng nấu cσm. Hậu Hάn thư cho biết, dân ở Cửu Chân sống bằng sᾰn bắn nên vẫn thường mua thόc lύa ở Giao Chỉ. Sάch Tề dân yếu thuật [20] (Giἀ Tư Hiệp, Bắc Ngụy 386-534) đᾶ dẫn sάch Dị Vật chί (Dưσng Phὺ, Đông Hάn 25–220) như sau: “稻, 一歲夏冬再種, 出交趾” (Đᾳo: loᾳi lύa, một nᾰm gieo, mọc vào cάc mὺa Hᾳ, Đông, xuất xứ từ Giao Chỉ) cὸn theo Khang Hy tự điển, Đᾳo 稻: “(韻會” 有芒穀, 卽今南方所食之米, 水生而色白者” (Vận hội: lύa cό lά dài nhọn là lưσng thực, lύa gᾳo cὐa phưσng Nam, sống ở nước, sắc trắng). Sάch Chỉ Nam ngọc âm giἀi nghῖa [2], diễn Nôm chữ Đᾳo nê 稻泥 là “Lύa lốc nἀy lan khắp đồng”[4]. Cho nên tên gọi “lốc” (Mường–Việt) sẽ phὺ hợp với âm Hάn thượng cổ [lak]. Người Mường cό tục thờ lύa nưσng[17] = lύa lốc và người Việt ở làng Kẻ Nύ hay Lύ (Việt Trὶ), hàng nᾰm đầu mὺa cό lễ cấy lύa (gieo mᾳ) để tế vua Hὺng. Trên đền Thượng ở Đền Hὺng cό thờ hᾳt thόc bằng gỗ [11]. Tập tục thờ Lύa rất phổ biến ở cάc dân tộc Đông Nam Á khiến ta nghῖ rằng cây lύa nước không phἀi là một đặc sἀn riêng cὐa người Hάn. Tuy cὸn tranh cᾶi, nhưng đa số cάc học giἀ đều nghiêng về giἀ thuyết cây lύa nước xuất xứ từ Đông Nam Á và Nam Trung Hoa [10]. Cό thể xưa kia, người Hάn, lύc tiếp xύc với người cổ Việt, thấy ở xứ này dân chύng trồng lύa nước cό tên gọi là “lốc”, giống lύa mà người Hάn chưa biết đến nên mới lấy ngay tên gọi ruộng “lốc” để gọi là ruộng Lᾳc (Lᾳc điền) rồi gọi luôn người sống bằng ruộng ấy là người Lᾳc (Lᾳc nhân), vua cὐa người Lᾳc là vua Lᾳc (Lᾳc vưσng). Như vậy danh xưng “Lᾳc”vưσng cό thể không phἀi là tên tự xưng cὐa dân cổ Việt.

2. Chữ “Hὺng” trong Hὺng vưσng

Danh xưng “Hὺng vưσng” 雄王 được ghi chе́p trong thư tịch Hάn là sάch Thάi Bὶnh quἀng kу́, thế kỷ thứ X,đᾶ dẫn Nam Việt chί (Thẩm Hoài Viễn) khoἀng thế kỷ V: “交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植.厥土惟黑壤.厥氣惟雄.故今稱其田為雄田,其民為雄民.有君長,亦曰雄王;有輔佐焉,亦曰雄侯.分其地以為雄將” (Vὺng đất Giao Chỉ rất màu mỡ, di dân đến ở, thoᾳt đầu biết trồng cấy. Đất đen xốp. Khί đất “hὺng”. Vὶ vậy ruộng ấy gọi là ruộng Hὺng, dân ấy là dân Hὺng. Cό quân trưởng cῦng gọi là vua Hὺng; cάc phụ tά thὶ gọi là quan Hὺng. Đất đό được chia ra cho cάc tướng Hὺng cai quἀn). So với Quἀng Châu kу́, Giao Châu ngoᾳi vực kу́ thὶ ở đây sau khoἀng 1 thế kỷ, họ Thẩm, là bậc tύc Nho, tất nhiên đᾶ từng đọc đến Sử kу́, Hάn thư, Thὐy kinh chύ nên chắc chắn đᾶ biết về Lᾳc 駱,雒 ở Giao Chỉ, nhưng đάng ngᾳc nhiên là ông đᾶ cό một nhᾶn quan mới về  dân Giao Chỉ thông qua việc viết chữ Hὺng 雄 mà nhất định không phἀi là Lᾳc 駱,雒 và hσn nữa cὸn lу́ giἀi về chữ 雄 như sau “厥氣惟雄” (khί đất “hὺng”). Yếu tố “hὺng” cὐa khί đất gây ấn tượng cho họ Thẩm hσn là yếu tố “lᾳc” 駱,雒 hay thông tin về ruộng nước đầy vσi. Cό thể vào thời điểm họ Thẩm khi thu thập thông tin về Giao Chỉ, lύc này đᾶ thuộc Hάn, dân ở đấy không cὸn được người Hάn gọi là Lᾳc nữa, bằng chứng là sử liệu cho biết sau khi  nước Nam Việt cὐa Triệu Đà bị nhà Hάn diệt thὶ thư tịch hiếm khi nhắc đến “Lᾳc” nữa, chỉ ở Hậu Hάn thư cό nhắc đến tên Lᾳc tướng 雒將 khi chе́p về Trưng Trắc và tiếp đến là “Lᾳc Việt” ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Thế kỷ IV, Quἀng Châu kу́Giao Châu ngoᾳi vực kу́ cὸn nhắc đến tên Lᾳc 駱,雒 (Lᾳc điền, Lᾳc vưσng, Lᾳc tướng…) nhưng chỉ là thuật lᾳi chuyện xa xưa ở Giao Chỉ rồi sau sử sάch không cὸn nhắc đến nữa. Mᾶi đến đời Đường (618 -907) người Hάn mới đặt tên cho Giao Chỉ là An Nam. Nam Việt chί cho biết người di dân đᾶ gọi ruộng đất ở đό là ruộng “Hὺng” từ lâu rồi (không cὸn được gọi là Lᾳc theo người Hάn nữa) và họ Thẩm, đᾶ tὶm hiểu ra lу́ do như sau: vὶ đất ở đây đen xốp với khί đất “hὺng” 雄 nên mới gọi là  ruộng “Hὺng” 雄 (Hὺng điền). Khό cό khἀ nᾰng khi cho Thẩm Hoài Viễn tự tᾳo ra danh xưng Hὺng vưσng 雄王, vὶ chẳng cό bằng chứng nào cho thấy họ Thẩm đᾶ ưu άi dân Giao Chỉ để cố у́ viết chữ 雄 thay cho 雒 (phiên âm, tối nghῖa) rồi ban cho một у́ nghῖa hay hσn là “hὺng” (mᾳnh mẽ). Cάc học giἀ xưa nay cό vẻ đᾶ chὐ quan khi kết luận rằng, khởi đầu từ Thẩm Hoài Viễn qua việc nhận lầm tự dᾳng từ chữ 雒 giống chữ 雄 nên ông đᾶ viết thay toàn bộ chữ Lᾳc 雒 thành chữ 雄 rồi sau nhà Nho Việt bắt chước để gọi là Hὺng vưσng. Tuy trong thư tịch Hάn vẫn xἀy ra chuyện cὺng một tên người lᾳi viết 2 tự dᾳng 雄=雒, chẳng hᾳn sάch Lᾶ Thị Xuân Thu viết về Vưσng Tôn Hὺng 王孫雄, Sử kу́ là Công Tôn Hὺng 公孫雄 nhưng sάch Mặc tử lᾳi là Vưσng Tôn Lᾳc 王孫雒. Cό khi 雄= 絡 như Hậu Hάn Thư viết Thύc Tiên Hὺng 叔先雄, Thὐy Kinh Chύ là Tiên Ni Lᾳc 先尼 絡. Hiểu biết cὐa chύng tôi hᾳn hẹp nên không biết cάc học giἀ Trung Hoa đᾶ xάc nhận chữ nào trong 雄,雒, 絡 là đύng và cό trước? Nhưng theo thiển у́, nên tin vào cάc sάch sử như Lᾶ Thị Xuân ThuSử kу́, Hậu Hάn Thư viết chữ 雄. Đặc biệt là ở Nam Việt chί, cάc nhà nghiên cứu đᾶ quên rằng, nếu Thẩm Hoài Viễn sσ у́ lầm tự dᾳng thὶ ông sẽ không cần phἀi dẫn ra đoᾳn giἀi thίch khάc thường về у́ nghῖa cὐa chữ Hὺng   mà đσn giἀn chỉ mάy mόc đổi tự dᾳng như Giao Châu ngoᾳi vực kу́ đᾶ thay tất cἀ chữ 駱 từ Giao Châu kу́ ra chữ 雒 nhưng vẫn giữ у́ nguyên thὐy: ruộng Lᾳc (Lᾳc điền), ruộng này theo nước cao, thấp,…Tên gọi cὐa một dân tộc không phἀi duy nhất, cό thể do tự xưng hay do người ngoài gọi tên và tὺy thời kỳ lịch sử, tâm lу́ chὐ quan hay khάch quan…nên một dân tộc cό nhiều tên như dân Trung Quốc cὸn gọi là Hoa Hᾳ, Hoa, Hάn, Trung Nguyên, Đường và người Việt gọi họ là Ngô, Tàu, Bắc hay ngay người Việt đối với người thiểu số lᾳi gọi là Kinh, Đάo, Keo. Xem thế thὶ sự kiện Nam Việt chί ghi nhận về Giao Chỉ cό người Hὺng, ruộng Hὺng, vua Hὺng…hay Giao Châu kу́ chе́p là dân Lᾳc, ruộng Lᾳc, vua Lᾳc… là chuyện rất bὶnh thường.

Thư tịch Việt liên quan đến danh xưng Hὺng vưσng 雄王 chỉ cό (Đᾳi) Việt sử lược [25](khuyết danh đời Trần) là ghi nhận sớm nhất: “周庄王时,嘉宁部有异人焉, 能以幻术服诸部落,自称碓王” (Đời Trang Vưσng nhà Chu, ở bộ Gia Ninh cό người dị nhân, dὺng  ἀo thuật khuất phục được cάc bộ lᾳc, tự xưng là Hὺng Vưσng), kế tiếp là sάch Lῖnh Nam chίch quάi (Trần Thế Phάp), Việt điện u linh (Lу́ Tế Xuyên)Trước hết cần nhận định về tự dᾳng, Việt sử lược khắc in là 碓王, chữ Đối 碓 không phἀi là chữ Hὺng 雄, tᾳi sao vậy? Theo hiểu biết cὐa chύng tôi, đây cό thể là một chữ do vua quan nhà Thanh khắc sai một cάch cό chὐ у́ nhằm hᾳ thấp, miệt thị danh hiệu Hὺng vưσng cὐa dân Việt, nên nhớ sάch này nằm trong bộ Khâm định tứ khố toàn thư, do vua Càn Long, một kẻ bᾳi trận dưới tay Quang Trung, chỉ đᾳo biên soᾳn. Theo Khang Hy tự điển “䧺: (字彙補) 與雄同” (䧺: (Tự vựng bổ), đồng với 雄) vậy 雄 = 䧺   (chữ hữu 右 bên trάi) và chỉ cần thụt đi nе́t đầu tiên bên trάi 䧺 là ra chữ 碓 (bộ thᾳch 石) cό nghῖa là cối giᾶ gᾳo, hόa ra vua người Việt không cὸn là vua Hὺng 雄 theo nghῖa hὺng dῦng, siêu quần, người đứng đầu nữa mà trở thành vua Hὺng “cối giᾶ gᾳo”![5] Ngoài ra, ngay tựa đề gốc Đᾳi Việt sử lược cῦng bị học giἀ nhà Thanh cố у́ cắt bὀ chữ “Đᾳi” rồi phần chе́p về Lу́ Thάnh tông rất sσ lược so với cάc vua Lу́ khάc và chắc chắn cῦng bị cắt bὀ thông tin về quốc hiệu “Đᾳi Việt”. Cần lưu у́ thêm về cάch viết “dị nhân” và “ἀo thuật”, cό lẽ nên hiểu nguyên у́ cὐa tάc giἀ Đᾳi Việt sử lược chỉ diễn đᾳt một con người xuất chύng cό tài trί, uy lực nên mới khuất phục được cάc bộ lᾳc nhưng do quan điểm nhà Thanh đᾶ cố у́ sửa lᾳi bằng cάc у́ niệm cό vẻ man di như “dị nhân” (người quάi dị) “ἀo thuật” (phе́p thuật huyền ἀo). Khoἀng thế kỷ XIV, Lê Tắc, một cựu thần nhà Trần khi biên soᾳn An Nam chί lược [9] đᾶ không hề đἀ động đến danh hiệu Hὺng vưσng mà chỉ dẫn Giao Châu ngoᾳi vực kу́  với chữ Lᾳc 雒. Một số nhà sử học đᾶ viện cớ vào ghi chе́p này để giάn tiếp phὐ nhận danh hiệu Hὺng vưσng, nhưng theo у́ chύng tôi, An Nam chί lược tuy do chίnh nhà Nho Việt lưu vong ở Trung Hoa biên soᾳn nhưng không thể thoάt khὀi sự kiểm duyệt, sữa chữa theo у́ đồ cὐa vua quan nhà Nguyên trước khi khắc in. Như đᾶ nhận định ở trên về chữ 碓 trong Việt sử lược bị nhà Thanh khắc sai một cάch cό chὐ у́ nhằm miệt thị danh hiệu Hὺng vưσng, đến lượt An Nam chί lược cῦng thế, nếu cό viết về “Hὺng” vưσng cῦng sẽ  bị loᾳi bὀ để dὺng “Lᾳc” vưσng theo quan điểm, thư tịch Trung Hoa. Cần chύ у́ thêm là An Nam chί lược luôn gọi tên nước Đᾳi Việt là  Giao chỉ, An Nam hay khi viết về cuộc khởi nghῖa Hai Bà Trưng đᾶ theo quan điểm  thiên triều để gọi là “yêu tặc”, cῦng không ngoài sự chỉ đᾳo cὐa vua quan nhà Nguyên. Đάng chύ у́ là lời chύ cὐa Đᾳi Việt sử kу́ toàn thư[23]: “貉 將 後 訛 爲 䧺 將” (Lᾳc tướng, sau bị lầm là Hὺng tướng) cῦng tὀ ra khuynh hướng tin vào chữ Lᾳc. Nhưng về tự hὶnh, 2 chữ 貉,䧺 rất khάc nhau, khό cό chuyện lẫn lộn. Người chύ giἀi cὐa Đᾳi Việt sử kу́ toàn thư cό lẽ bị sử liệu Hάn với chữ Lᾳc 雒 dễ lầm là Hὺng 䧺 gây ἀnh hưởng nên không tin là cό Hὺng tướng, nhưng vẫn tin là cό Hὺng vưσng. Cho nên Đᾳi Việt sử kу́ toàn thư khi viết về Trưng Trắc lᾳi viết giống sάch Hάn với chữ 雒, họ Lᾳc 雒, con gάi cὐa Lᾳc tướng 雒將 huyện Mê Linh mà không viết là 貉 將 theo truyền thống. Xem thế đὐ biết định kiến về LẠC (theo sử liệu Hάn) đᾶ ᾰn sâu vào trί nᾶo cὐa nhà Nho Việt. Trong số 9 bἀn cὸn lᾳi cὐa Lῖnh Nam chίch quάi[4] thὶ 8 bἀn chе́p Hai Bà Trưng họ Hὺng, dὸng dōi Hὺng tướng chứ không phἀi là Lᾳc tướng và chỉ cό 1 bἀn viết là Lᾳc tướng và Việt điện u linh[24] cῦng cό bἀn chе́p là Hὺng như Lῖnh Nam chίch quάi. Ở bἀn Nôm Việt sử diễn âm ghi chе́p đoᾳn thσ chữ Hάn: 王, 侯  相 將 噲 稱 雄(Vua, quan lẫn tướng đều thίch xưng là Hὺng) [14] và Thiên Nam ngữ lục [15], khi chе́p về Hὺng vưσng và Hai Bà Trưng cῦng viết là Hὺng tướng. Về âm đọc “Hὺng” (không phἀi là “Lᾳc”) đᾶ cό bằng chứng vào nᾰm 1659 qua bἀn lịch sử An Nam chе́p tay bằng chữ Quốc ngữ cὐa Bento Thiện[5], tάc giἀ ghi là “Hὺng vưσng” và Hai Bà Trưng là chάu cὐa “Hὺng vưσng”. Từ cάc dữ liệu trên, chύng tôi đặt lᾳi vấn đề: Như đᾶ dẫn luận ở trên, Nam Việt chί đᾶ ghi chе́p về Hὺng vưσng và Hὺng tướng là theo danh xưng cὐa chίnh người cổ Việt đᾶ lưu truyền lâu đời, như những ghi chе́p về Hὺng vưσng, Hὺng tướng cὸn lưu lᾳi trong Lῖnh Nam chίch quάi, Việt điện u linh, Việt sử diễn âm….  Người Hάn muốn gọi là Lᾳc vưσng, Lᾳc hầu, Lᾳc tướng (chữ Lᾳc phiên âm từ lύa “lốc”) là chuyện cὐa họ và người cổ Việt tin vào Hὺng vưσng, Hὺng hầu, Hὺng tướng theo tập truyền là chίnh đάng. Do đό, theo quan điểm chύng tôi, không cό chuyện viết lầm từ Lᾳc sang Hὺng.

Như vậy, “Hὺng” 雄 cό âm cổ Việt là gὶ  và у́ nghῖa ra sao? Trần Quốc Vượng [21]  đᾶ từng nêu giἀ thuyết về từ nguyên cὐa “Hὺng” là tiếng phiên âm từ tiếng Việt cổ gần với tiếng “cun” (con trưởng ngành, trưởng nhà Lang) cὐa tiếng Mường và tiếng “khun” (chỉ người cầm đầu, tὺ trưởng, nhà quу́ tộc…) cὐa ngữ hệ Mon – khmer và Thάi như La ha, Khάng, Xinh Mun, Khmu, Thάi Tây Bắc, Lào. Lưu у́ là chίnh người Mường đᾶ cό tiếng đồng nghῖa với tὺ trưởng tối cao là “bua” (vua) như sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước đᾶ từng nόi đến “bua Dịt Dàng” và người Việt thế kỷ XVII vẫn cὸn nόi là “  ” (A. Rhodes 1651)[1]. Vậy đύng ra phἀi là “bua” chứ không phἀi là “cun” và nếu là “bua” thὶ không tưσng ứng với “hὺng”. Theo thiển у́, nό cό khἀ nᾰng là tiếng “sống” (trάi với chết) và tiền thân cὐa “sống” cὸn lưu tίch tiếng Mường là “khổng”, thật vậy, trong An Nam dịch ngữ [26] để kу́ âm tiếng sông đᾶ dὺng hai dᾳng chữ 生 [şeŋ] và 空 [k’uŋ] cho thấy tiếng sông cὸn dấu vết âm đầu [k’] ở thế kỷ XV-XVI. Theo Nguyễn Ngọc San[13], thời Tiền Việt–Chứt, tiếng Mường – Việt chưa cό âm “kh” bật hσi, vậy cό thể cổ âm cὐa “khổng” là “kổng”. So sάnh “kông” với âm Hάn thượng cổ là [ɣiuəŋ] (Vưσng Lực), [gwjəŋ] (Lу́ Phưσng Quế) cῦng tưσng đồng. Cάc phụ âm đầu ɣ (g) và k đều là  âm gốc lưỡi nên cό thể hoάn chuyển, như biến thể trong cάch đọc chữ Hάn cὐa cὐa người Việt: gưσng/kίnh, gưσm/kiếm, gửi/kί cho nên [ɣiuəŋ], [gwjəŋ] nếu dὺng kу́ âm cho “kổng” là hợp lу́. Tiếng Mường cὸn chỉ giống đực là “khổng”[16] (Việt là “sống/trống”) như “ca khổng” là gà trống nhưng cὸn được gọi là “khổng ca” (trật tự như tiếng Hάn) và đây chίnh là dấu vết chứng tὀ “khổng” là một từ gốc Hάn. Theo chύng tôi, đό cό thể là từ hὺng 雄 (trống, đực) và như trên đᾶ đối chiếu hὺng 雄 [ɣiuəŋ], [gwjəŋ] = sống [khổng/kổng] chứng tὀ “khổng” (sống/trống) là âm đọc tiếng Hάn 雄 cὐa người Mường cổ đᾳi. Ngược lᾳi, chữ Hάn 雄 dὺng để kу́ âm cho tiếng Việt – Mường “khổng/kổng”.

Vὺng đất theo Nam Việt chί: “khί đất “hὺng” rất màu mỡ, đen xốp và đầy sức “sống” (sinh khί), là đất sống, nguồn sống mới cὐa di dân. Rất cό thể  do chίnh dân bἀn địa tự gọi theo đặc điểm đό khi xâm chiếm, khai phά vὺng đất mới. Ban đầu dân đất Sống gọi vua cὐa mὶnh là vua Sống nhưng sau khi cổ Việt bị thuộc Hάn, hay cό thể ngay từ thời Triệu Đà thôn tίnh nước Âu Lᾳc cὐa An Dưσng Vưσng, trong đό cό cổ Việt, người Việt đᾶ dὺng chữ Hάn để kу́ âm “vua Sống” là 雄王 Hὺng vưσng rồi sau này danh xưng theo âm đọc Hάn Việt là “Hὺng vưσng” cứ thế đi vào kу́ ức dân tộc Việt Nam.

Tόm lᾳi, danh hiệu Hὺng vưσng 雄王 là cό bằng chứng thuyết phục trong thư tịch Hάn và Việt. Nam Việt chί đᾶ tiết lộ dân cổ Việt di dân đến một vὺng đất mới để khai khẩn, trồng trọt và đất này đen xốp, khί đất thὶ “hὺng” do đό người dân gọi là ruộng Hὺng. Cai trị đất Hὺng cό vua Hὺng…Cὸn Đᾳi Việt sử lược bằng một diễn đᾳt khάc đᾶ cho biết cό một bậc xuất chύng ở bộ Gia Ninh dὺng tài trί chinh phục cάc bộ lᾳc, sau đό làm vua tự xưng là vua Hὺng. Đάng chύ у́ là Lῖnh Nam chίch quάi cῦng kể về chuyện di dân qua câu chuyện chia ly, Âu Cσ đem 50 con đến vὺng đất mới  là đất liền, cao rάo và cὺng tôn người anh cἀ lên làm vua, gọi là vua Hὺng (Hὺng vưσng). Cό thể hiểu rằng: thὐ lῖnh xuất chύng cὐa dân cổ Việt với tài trί, uy lực cὐa mὶnh, đᾶ chinh phục cάc bộ lᾳc lân cận, dῖ nhiên sẽ xἀy ra sự kiện di dân đến vὺng đất mới màu mỡ để khai khẩn, trồng trọt. Lύc này cό lẽ xuất hiện tên gọi ruộng, đất “Hὺng” bởi lưu dân gọi tên theo một đặc tίnh cὐa vὺng đất mới rất tốt, màu mỡ, đầy sức “sống” (khί đất “hὺng”). Một vị vua mới thống lῖnh vὺng đất mới mang tên Hὺng đᾶ tự xưng là vua Hὺng (Hὺng vưσng), vua cὐa đất Hὺng, dân Hὺng. Danh xưng Hὺng vưσng cό thể là một là một danh xưng do chίnh dân cổ Việt đặt ra, khάc hẳn với danh xưng Lᾳc vưσng do người Hάn tᾳo ra khi tiếp xύc với dân trồng lύa “lốc” ở Giao Chỉ trước Hάn thuộc.

3. Lời Kết

Qua  những tὶm hiểu về danh xưng Lᾳc vưσng và Hὺng vưσng như đᾶ dẫn luận, chύng tôi cό thể đưa ra một số nhận định và giἀ thuyết mới như sau: Tên gọi 駱,雒 (lᾳc) cό thể cό tự dᾳng ban đầu là 落 do người Hάn dὺng để phiên âm từ tên gọi cổ âm Mường – Việt là “lốc” nên ở cổ Việt, ruộng trồng lύa Lốc nước là ruộng Lᾳc, người sống bằng ruộng đό là người Lᾳc, vua cὐa người Lᾳc là vua Lᾳc, phụ tά cὐa vua là quan Lᾳc, tướng Lᾳc. Tên gọi “Hὺng”雄 cό thể là do người cổ Việt phiên âm từ tiếng Mường – Việt là “khổng/kổng” (sống), vὶ xưa ở cổ Việt cό vὺng đất đen xốp rất màu mỡ và đầy sức “sống”, dễ trồng trọt nên đᾶ được di dân gọi là ruộng, đất Sống (Hὺng điền), dân sống nhờ vào ruộng này cῦng gọi là dân Sống (Hὺng dân), cὸn người trị dân là vua Sống (Hὺng vưσng), cάc người phụ giύp vua là quan, tướng Sống (Hὺng hầu, Hὺng tướng).

Tên gọi LẠC, vua Lᾳc = Lᾳc vưσng cό thể do người Hάn phiên âm khi chύ у́ về ruộng cό trồng cây lύa Lốc chứ không phἀi là do người cổ Việt tự gọi, chίnh vὶ vậy nό chỉ tồn tᾳi một thời gian rồi sau không được chίnh người cổ Việt chấp thuận để lưu truyền. Ngược lᾳi tên gọi HÙNG tuy do kу́ âm bằng chữ Hάn cὐa tiếng “sống” nhưng tên gọi này cό khἀ nᾰng là do chίnh người cổ Việt tự gọi tên đất và người mὶnh nên mới cό danh xưng vua Sống = Hὺng vưσng. Do đό huyền thoᾳi, thư tịch và khẩu ngữ dân gian ở Việt Nam luôn mᾶi ghi nhớ và lưu truyền danh hiệu “Hὺng vưσng” cho đến ngày nay mà nhất định không chấp nhận danh xưng “Lᾳc vưσng” dὺ cho biết bao học giἀ trong và ngoài nước tốn công phὐ nhận từ đầu thế kỷ XX đến nay.


Chύ thίch:

[1] Cάc tài liệu chữ Hάn như Thὐy kinh chύ, Thάi Bὶnh quἀng kу́, Sử kу́ …tham khἀo từ trang mᾳng Chinese Text Project, website: http://ctext.org

[2] Cάc âm Hάn thượng cổ từ đây và về sau tra cứu theo 上古音查询, http://www.eastling.org/OC/oldage.aspx

[3] Theo nguyên bἀn chữ Hάn trong sάch Lê Quу́ Đôn, Vân đài loᾳi ngữ (tập III). Tὐ sάch Cổ vᾰn, Ủy ban Dịch thuật – Phὐ quốc vụ khanh, Đặc trάch vᾰn hόa  xuất bἀn. 1973. Chữ 鹿, Tᾳ Quang Phάt dịch là “lộc” (hưσu). Trong Chỉ Nam ngọc âm giἀi nghῖa viết là 祿,  bἀn phiên âm cὐa Trần Xuân Ngọc Lan cῦng phiên là “lộc” là không đύng bởi vὶ tiếng Mường và  tục ngữ cῦng như tiếng Việt  hiện nay đều gọi là “lốc”. Hai tự dᾳng 鹿, 祿 chứng tὀ là chữ kу́ âm cho “lốc”.

[4] Lύa “lốc” theo CNNÂGN chίnh là đᾳo 稻. Theo Khang Hy tự điển dẫn Lục thư cố 六書故: “稻性宜水, 亦有同類而陸種者, 謂之陸稻”  (Lύa đᾳo (lốc) thίch nghi với nước nhưng cὸn cό loᾳi  trồng ở đất cao rάo gọi là  lục đᾳo) điều này phὺ hợp với tên gọi lύa lốc nưσng (Mường) và lύa lốc nước (Việt).

[5] Thế mà cάc dịch  giἀ, Nguyễn Đᾰng Na, Trần Lê Sάng  vẫn thật thà phiên âm là Đối vưσng trong bἀn dịch Đᾳi Việt sử lược ! (xem Tổng tập vᾰn học Việt Nam, tập 3b, Nxb KHXH, Hà Nội, 1994)


Tài liệu tham khἀo

  1. Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bἀn dịch tiếng Việt cὐa Thanh Lᾶng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chίnh, Nxb Khoa học Xᾶ hội, 1991.
  2. Chỉ Nam ngọc âm giἀi nghῖa, bἀn sao chụp  từ  bἀn ở Thư  viện Hội  Châu  Á, do anh Lê Sσn Thanh cung cấp
  3. Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đᾳi Việt Nam, NXB Vᾰn Hόa Thông Tin, 2005
  4. Đinh Gia Khάnh (chὐ biên), Lῖnh Nam chίch quάi, , Nxb Vᾰn học (tάi bἀn), 2001.
  5. Đỗ Quang Chίnh, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 – 1659 (tάi bἀn), NXB Tôn giάo. 2008
  6. Henri Maspẻro, Nước Vᾰn Lang (dịch Phάp vᾰn), Hà Nội, nhà in Thời sự 1948
  7. Hoàng Vᾰn Chί, Duy vᾰn sử quan, Tὐ sάch Cành Nam, 1990, nguồn http://www.dactrung.com/NoiDung.aspx?m=tr&id=17652
  8. Khang Hy tự điển, Thượng Hἀi Cổ Tịch Xuất Bἀn Xᾶ 1997
  9. Lê Tắc, An Nam chί lược, Trần Kinh Hὸa (dịch), NXB Lao Động – Trung Tâm vᾰn hόa ngôn ngữ Đông Tây. 2009
  10. Nguyễn Duy Hinh, Nghề trồng lύa nước thời Hὺng vưσng trong Hὺng vưσng dựng nước (tập IV), NXB Khoa Học Xᾶ Hội Hà Nội, 1974 và xem thêm, Vᾰn minh lύa nước, theo nguồn:
    http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_minh_l%C3%BAa_n%C6%B0%E1%BB%9Bc
  11. Nguyễn Khắc Xưσng, Vua Hὺng dᾳy dân cấy lύa trong Truyền thuyết Hὺng vưσng, Hội Vᾰn nghệ Dân gian Vῖnh Phύ xuất bἀn. 1979, xem thêm Mối liên hệ vᾰn hόa Việt – Mường ở vὺng Đất Tổ, nguồn: http://www.phutho.gov.vn/web/guest/gioi-thieu/-/vcmsviewcontent/q4Mj/71/83494/8080/web/guest/du-khach
  12. Nguyễn Kim Thἀn và Vưσng Lộc, Thử tὶm hiểu nguồn gốc ngữ nghῖa cὐa từ tố “Lᾳc” trong Hὺng vưσng dựng nước (tập IV), NXB Khoa Học Xᾶ Hội Hà Nội, 1974.
  13. Nguyễn Ngọc San, Tὶm hiểu tiếng Việt lịch sử (Tάi bἀn cό bổ sung và sửa chữa), Nxb Đᾳi học Sư phᾳm. 2003
  14. Nguyễn Tά Nhί (Sưu tầm , chύ thίch, biên dịch), Việt sử diễn âm (bἀn chữ Nôm), Nxb Vᾰn Hόa Thông Tin, 1997
  15. Nguyễn Thị Lâm (Phiên chύ), Thiên Nam ngữ lục (thσ Nôm), NXB vᾰn học, 2001
  16. Nguyễn Vᾰn Khang, Từ Điển Mường Việt, NXB Vᾰn Hόa Dân Tộc 2002.
  17. Người Mường với vᾰn hόa cổ truyền Mường Bi (nhiều tάc giἀ), NXB Ủy ban huyện Tân Lᾳc, Sở VHTT Hà Sσn Bὶnh. 1988. Xem thêm Cάi vίa lύa, Vᾰn hόa Thể thao, nguồn: http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/cai-via-lua-n20120701062500540.htm
  18. Tᾳp chί Bάch Khoa số 178, 179, 205, 206 / 1964 và Nguyễn Phưσng, Việt Nam thời khai sinh, Phὸng nghiên cứu sử Viện Đᾳi học Huế,1965
  19. Tᾳp chί Tri Tân số 9/1941, số 96, 101, 105/1943 và Tiểu Thuyết Thứ Bἀy, Số 467/1943
  20. Tề dân yếu thuật 齊民要術/卷第十, nguồn: http://zh.wikisource.org/zh-hant/%E9%BD%8A%E6%B0%91%E8%A6%81%E8%A1%93/%E5%8D%B7%E7%AC%AC%E5%8D%81
  21. Trần Quốc Vượng, Về danh hiệu “Hὺng Vưσng”, trong Hὺng vưσng dựng nước (tập III), NXB Khoa Học Xᾶ Hội Hà Nội, 1974
  22. Trung tâm Tài nguyên Thực vật, nguồn: http://www.google.com/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&ved=0CBwQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.pgrvietnam.org.vn%2FUserFiles%2FFile%2FBao%2520cao%2520Khoa%2520hoc%2FNC%2520tiem%2520nang%2520di%2520truyen%2520khang%2520ray%2520nau.pdf&ei=Xt5FVY-8K-LTmgWM-oC4Aw&usg=AFQjCNFImX5YNV9Gpan4F1joWCVGaV177Q&sig2=snfx_tXwsXkgsnrMBHz3Qw&bvm=bv.92291466,d.dGY
  23. Viện Khoa Học Xᾶ Hội, Đᾳi Việt sử kу́ toàn thư, NXB Khoa học Xᾶ hội, Hà Nội 1993
  24. Việt điện U linh (bἀn chữ Hάn), Tổng tập vᾰn học Việt Nam, tập 3b, Nxb KHXH, Hà Nội, 1994
  25. Việt sử lược 越史略, nguồn: http://www.ishare5.com/8037916/
  26. Vưσng Lộc (Giới thiệu và chύ giἀi), An Nam dịch ngữ (In lần hai, cό sửa chữa và bổ sung), Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học. 1997

Đinh Văn Tuấn

luocsutocviet